Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá được tỉ lệ nở, tỉ lệ sống của cá bột, cá hương, cá giống và tốc độ tăng trưởng của cá qua từng giai đoạn để phục vụ công tác chọn giống. Thí nghiệm ấp trứng, ương, nuôi cá chép Tata và cá chép Szavas P3 nhập từ Hungary về Việt Nam được thực hiện từ tháng 7/2019-12/2020 tại Trung tâm Quốc gia Giống thủy sản nước ngọt miền Bắc. Kết quả cho thấy thời gian nở của trứng cá chép Tata là 61,8 ± 2,1 giờ, cá chép Szavas P3 là 62,2 ± 3,3 giờ tương đương tỉ lệ nở là 91,5 ± 2,8 và 93,3 ± 3,4%, tỉ lệ dị hình là 1,2 ± 0,6% và 1,3 ± 0,4%. Tỉ lệ sống của cá hương Tata là 62,5 ± 3,4%, Szavas P3 là 67,5 ± 4,6%. Tỉ lệ sống của cá chép giống Tata là 48,7%, cá chép Szarvas P3 là 53,3%. Tăng trưởng tuyệt đối về chiều dài và khối lượng cá Tata trong giai đoạn nuôi cá giống là 6,8 ± 1,26 mm/ngày và 0,51 ± 0,08 g/ngày, cá Szarvas P3 là 6,3 ± 1,5 mm/ngày và 0,49 ± 0,04 g/ngày.Sau 12 tháng nuôi, khối lượng trung bình và chiều dài thân cá chép Tata đạt 1.670,5 ± 10,2g/con và 50,2 ± 7,1 cm/con, cá chép Szavas P3 đạt 1.565,5 ± 10,2 g/con và 49,3 ± 7,7 cm/con. Hệ số chuyển đổi thức ăn đối với cá Tata và Szavas P3 lần lượt là 2,0 và 1,9. Kết quả ấp trứng, ương, nuôi cho thấy cá chép Tata và chép Szavas P3 đã đảm bảo được các chỉ tiêu để làm vật liệu di truyền phục vụ công tác chọn giống cá chép mới.