Mục tiêu của nghiên cứu này là tìm ra mật độ và hàm lượng protein thích hợp để ương nuôi cá lóc đầu nhím thương phẩm. Nghiên cứu được tiến hành tại Khoa Thuỷ sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Thí nghiệm được bố trí trong các bể composite (1m3/bể),mỗi công thức được lặp lại 3 lần. Thí nghiệm 1 nhằm đánh giá ảnh hưởng của ba mật độ nuôi 70, 80, 90 con/m3(cỡ cá 8,90± 0,45 g/con) lên tốc độ sinh trưởng của cá khi sử dụng thức ăn viên 42% protein. Sau 4 tuần nuôivới mật độ 70 con/m3tỷ lệ sống, tốc độ tăng trưởng và hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR) của cá lóc đầu nhímlần lượt là99,05± 0,82%; 0,33± 0,02 g/ngày và 1,18± 0,05; ởmật độ 80 con/m3 đạt 99,17± 1,44%; 0,40± 0,02 g/ngày và 1,19± 0,02, mật độ 90 con/m3 đạt 99,26± 0,64%; 0,36± 0,01 g/ngày và 1,34± 0,03. Sựkhác biệt về tốc độ tăng trưởng và tỷlệ sống chưa có ý nghĩa thống kê (P >0,05) giữa các công thức. Thí nghiệm 2 đánh giá ảnh hưởng của 3 loại thức ăn có hàm lượng protein là 30%, 35% và 42% đến khả năng tăng trưởng và tỷ lệ sống cá lóc nuôi ở mật độ 80 con/m3(cỡ cá 36,6± 1,11 g/con). Sau 4 tháng nuôi, công thức(CT)có hàm lượng protein 42% cho kết quả tăng trưởng cao nhất (1,99± 0,03 g/ngày)và tỷlệ sống 86,67± 5,05%, kế đến là CT 35% (1,76± 0,06 g/ngày; 87,50± 6,25%) và CT 30% thấp nhất (1,60± 0,05 g/ngày; 84,58± 2,89%).Sai khác về tỷlệ sống giữa các công thức chưa có ý nghĩa thống kê (P >0,05).Ngoài ra, CT 42% protein cho kết quả tốt nhất với tăng trưởng về chiều dài (1,34± 0,03 mm/ngày), FCR(1,19)vàhệ số phân đàn (10,3± 0,5). Kết quả nghiên cứu cho thấy ương nuôi cá lóc ở mật độ 80 con/m3, sử dụng thức ăn có hàm lượng protein 42% cho tăng trưởng và tỷ lệ sống tốt nhất so với các mật độ nuôi và hàm lượng protein còn lại.