Nghiên cứu này được tiến hành tại Trạm nghiên cứu và Phát triển giống lợn hạt nhân Kỳ Sơn thuộc Trung tâm Nghiên cứu lợn Thuỵ Phương - Viện Chăn nuôitừ năm 2015 đến 2020 nhằm đánh giá ảnh hưởng của yếu tố giống (Landrace và Yorkshire), thế hệ (xuất phát, 1 và 2), mùa vụ (Xuân, Hạ, Thu và Đông) và lứa đẻ (1, 2, 3, 4, 5 và 6) đến năng suất sinh sản của lợn nái Landrace(L)và Yorkshire(Y). Năng suất sinh sản được đánh giá trên 320 nái (160 L và 160 Y) với 1549 ổ đẻ (781 L và 768 Y) qua 6 lứa; bao gồm 80 nái (40 L và 40 Y) thế hệ xuất phát được nhập từ Pháp, 120 nái (60 L và Y) thế hệ thứ nhất và 120 nái (60 L vàY60) thế hệ thứ 2 sinh ra ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy yếu tố giống, thế hệ và lứa đẻ ảnh hưởng đến số con sơ sinh sống/ổ, số con cai sữa/ổ, khối lượng sơ sinh sống/ổ và khối lượng cai sữa/ổ (P <0,0001); tuy nhiên yếu tố mùa vụ không ảnh hưởng đến các chỉ tiêu nghiên cứu này (P >0,2839). Nái Yorkshire có năng suất sinh sản cao hơn so với lợn nái Landrace đối với số con/ổ và khối lượng/ổ tại thời điểm sơ sinh và cai sữa (P <0,0001). Nái từ nguồn gen Pháp có năng suất sinh sản cao: số con sơ sinh sống/ổ (12,82 và 13,59 con), số con cai sữa/ổ (11,37 và 12,01 con), khối lượng sơ sinh sống/ổ (19,62 và 20,39kg), khối lượng cai sữa/ổ (74,43 và 79,06kg tương ứng L và Y) và tăng dần qua các thế hệ (P <0,0051). Có thể sử dụng lợn L và Y từ nguồn gen Pháp làm nguyên liệu để tạo đàn hạt nhân và con nái sinh sản F1từ 2 giống trong điều kiện chăn nuôi ở miền Bắc Việt Nam.