Factors Affecting the Cadre Quality of Socio-political Organizations: A Case Study in Nghia Dan District, Nghe An Province

Received: 05-05-2021

Accepted: 30-08-2021

DOI:

Views

0

Downloads

0

Section:

KINH TẾ XÃ HỘI VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

How to Cite:

Huong, L. (2024). Factors Affecting the Cadre Quality of Socio-political Organizations: A Case Study in Nghia Dan District, Nghe An Province. Vietnam Journal of Agricultural Sciences, 19(10), 1353–1360. http://testtapchi.vnua.edu.vn/index.php/vjasvn/article/view/895

Factors Affecting the Cadre Quality of Socio-political Organizations: A Case Study in Nghia Dan District, Nghe An Province

Le Ngoc Huong (*) 1

  • 1 Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
  • Keywords

    Socio-political organization, cadre quality, affecting factors

    Abstract


    Despite the limited quantity of full-time positions, cadres of socio-political organizations at district and commune levels are responsible for important duties in social management as well as production and business development. Thus, their quality needs to be improved to meet practical requirements. This study aimed to propose solutions to improve the quality of cadres of socio-political organizations in Nghia Dan district, Nghe An province and other districts with similar conditions. The main research methods used were descriptive statistics, comparative statistics and linear regression models. The research results showed that there were 6 factors which accounted for 79% of the change in the quality of cadres in socio-political organizations. The most significant influencing factors among these were professional qualifications, political-theory levels and the degree of regular training in professional and other fields relevant to their position and work. In order to improve the quality of cadres, it is necessary to implement various solutions such as improving their professional qualifications, political-theory levels, regular training and income improvement.

    References

    Ban chấp hành Trung ương Đảng (2015). Quy định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các Đoàn thể chính trị, xã hội cấp huyện.

    Ban chấp hành Trung ương Đảng (2017). Quy định số 89- QĐ/TW ngày 04/8/2017 của Ban chấp hành Trung ương về đánh giá cán bộ.

    Chính phủ (2020). Nghị định số 90/2020/NĐ-CP về đánh giá xếp loại loại cán bộ, công chức, viên chức.

    Diệp Văn Sơn (2012). Xây dựng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho bộ máy hành chính, Tạp chí Phát triển nhân lực. 1: 34-36.

    Đặng Thị Hồng Hoa (2016). Chất lượng và tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ hiện nay. Tạp chí Cộng sản. 3: 83-85.

    Lê Anh Cường (2014). Phương pháp và kỹ năng quản lý nhân sự. Nhà xuất bản Lao động xã hội, Hà Nội. tr. 95-96.

    Nguyễn Bách Khoa (2013). Maketing các nguồn nhân lực. Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội. tr. 135-140.

    Nguyễn Ngọc Hiến (2012). Cải cách hành chính ở Việt Nam. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr. 45-48.

    Nguyễn Phương Đông (2012). Vấn đề giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Tạp chí Kiểm tra. 7: 26-27.

    Nguyễn Thị Bích Trâm & Lê Thị Thanh Xuân (2015). Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp của lực lượng lao động mới. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học mở Thành phố Hồ Chí Minh. 10: 50-62.

    Phòng Nội vụ huyện Nghĩa Đàn (2020). Kết quả đánh giá phân loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức.

    Thang Văn Phúc & Nguyễn Minh Phương (2014). Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi của nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.

    Trần Hương Thanh (2008). Một số giải pháp nâng cao tính tích cực lao động của cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước. Tạp chí Tổ chức Nhà nước, Học viện chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. 6: 25-26.

    Tổng cục Thống kê (2020). Niên giám Thống kê.Nhà xuất bản Thống kê, 2020.

    Vũ Trọng Hùng (2012). Quản trị nguồn nhân lực. Nhà xuất bản Thống kê. tr. 145-148.