Ngày nhận bài: 19-05-2013 / Ngày duyệt đăng: 25-06-2013
Bài báo này đánh giá kinh nghiệm thực hiện chính sách chi trả dịch vụ sinh thái trên thế giới và khả năng áp dụng ở Việt Nam. Chi trả dịch vụ hệ sinh thái là một công cụ kinh tế điều tiết mối quan hệ giữa người cung cấp dịch vụ và người hưởng lợi từ các dịch vụ của hệ sinh thái mang lại. Những người sử dụng dịch vụ chi trả cho những người tham gia duy trì, bảo vệ và phát triển các chức năng của hệsinh thái. Các phương pháp nghiên cứu đã được áp dụng như: Phương pháp kế thừa, thu thập thông tin thông qua hội thảo, tập hợp tài liệu, điều tra; Phương pháp phân tích, so sánh; Phương pháp khảo sát, phỏng vấn.Kết quả của nghiên cứu này đã nêu được các thành phần tham gia vào chi trả dịch vụ hệ sinh thái rừng(bên bán và bên mua), đặc biệt vài trò nhà nước trong việc chi trả các dịch vụ công(trồng rừng, rừng chắn song ven biển…) và điều phối các hoạt động của PES. Nhiều văn bản pháp quy của nhà nước đã được ban hành như Nghị định 99/2010/NĐ-CP... Trong những năm 2011, 2012, chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng đã mang lại nguồn thu lớn 1.172,4 tỷ đồng cho ngân sách. Đây là những kết quả bước đầu mở ra cho hướng phát triển chi trả dịch vụ hệ sinh thái khác nhằm phục vụ cho công tác bảo tồn, khai thác bền vững hệ sinh thái ở nước ta.